Trong các sử liệu Hòa ước Nhâm Tuất (1862)

Trong sử nhà Nguyễn

Trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện (phần chép về Phan Thanh Giản) có đoạn kể vắn tắt lại sự việc trên như sau:

Năm thứ 15 (1862), tướng Pháp ở Gia Định mang thư đến nghị hòa. Đình thần xin cho sứ đi lại là phải. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp xin đi. Vua chuẩn cho hai viên ấy sung làm chánh, phó sứ toàn quyền đại thần. Vua rót rượu ngự ban cho, và bảo nên biện bác sao cho khéo. Khi các ông đến Gia Định, tướng Pháp bức bách ta phải nhường giao đất đai và phải chịu tiền bồi thường. Việc đến tai vua, vua xuống dụ khiển trách nghiêm nghị, đổi làm lĩnh Tổng đốc Vĩnh Long, cùng tướng Pháp bàn làm, để chuộc tội...[16]

Trong sách Pháp

Trích trong sách La question de Cochinchine au point de vus des intérêts français của tác giả H. Abel (là sĩ quan hải quân trong bộ tham mưu của đô đốc Charner một người có vai trò quan trọng ở Nam Kỳ từ năm 1860 đến năm 1865[17])

...Triều đình Huế phải đối phó rất gay go cùng một lúc với chiến tranh ở Bắc và ở Nam thì rất nguy hiểm…Thế nhưng sau khi ký hòa ước 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Tự Đức nhận ngay ra sai lầm nghiêm trọng của mình. Và sách lược của Huế là phải chuộc lại lỗi lầm trên, nhưng về biện pháp thì lại vừa biểu hiện "quyết tâm của kẻ yếu thế", vừa bộ lộ sự "lúng túng, không quyết đoán" của họ....Bấy lâu nay, triều đình Huế vẫn tỏ ra câm lặng trước mọi phương án, bỗng quay ra chấp thuận những điều khoản của hiệp ước…Phải chăng đây là kế sách của một triều đình đã đến bước đường cùng khi nhận ra sức mạnh của đối phương, và đành phải khuất phục để tránh những tai họa lớn hơn? Hay đây là sự thắng thế của phe phái này đối với phe kia trong triều đình? Hay phải chăng đây là do ảnh hưởng của một nhân vật không ngoan? (ám chỉ Trương Đăng Quế). Hẳn là đã có tất cả các lý do trên [18].

Trong sách Việt

  • Giáo sư Nguyễn Phan Quang:
Các nguồn tư liệu khác nhau cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một mặt, phong trào kháng chiến của nhân dân đang phát triển mạnh[19], đặt địch quân trước những khó khăn nan giải; mặt khác là những tác động do thất bại của Pháp ở Syrie, sa lầy ở Mexique và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp.Giữa lúc đó, triều đình Huế chủ động "nghị hòa và ký kết mau chóng" đã làm cho thực dân Pháp ngạc nhiên:May mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước[20].Giám đốc Sở Nội vụ Paulin Vial cũng đã viết:Trung tá Simon từ Bắc trở về báo cho quan đô đốc (Bonard) rằng người An Nam muốn điều đình...là một tin mừng giữa lúc có nhiều lo âu quan trọng...Người ta ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ các ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá với họ [21].Trích trong báo cáo của đô đốc Bonard gửi về Pháp ngày 8 tháng 9 năm 1862:Phải nói rằng tôi chỉ còn biết hài lòng về chính phủ Tự Đức và những người thay mặt họ đã giúp tôi tại Nam Kỳ để cho hiệp ước được thi hành sớm chừng nào hay chừng ấy[22]Rõ ràng, nhà Nguyễn hiểu đối phương rất kém. Và mãi cho đến nay người ta vẫn băn khoăn không rõ vì sao chỉ trong một khoảng thời gian ngắn[23] thương thuyết, phái bộ nhà Nguyễn đã vội chấp nhận những điều khoản nặng nề như vậy.Cho nên, vua Tự Đức đã lên án trưởng phó phái bộ Phan, Lâm là: tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời[24]. Sau, trong bài văn khắc trên bia Khiêm Lăng, nhà vua còn nhắc lại chuyện cũ: Bất đắc dĩ cầu hòa với giặc, sai sứ đi định ước, không biết vì cớ gì mà lập thành hòa ước dễ dàng, đem tất cả thổ địa nhân dân của các triều trước mở mang khó nhọc bỗng chốc bỏ cho giặc hết [25].Các vụ loạn ở Bắc Kỳ có một điều vô cùng tai hại là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862) với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc Kỳ. Tự Đức nghĩ rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi phục những tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình trạng khẩn trương hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động tướng Nguyễn Tri Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc bấy giờ cũng đủ hiểu... Sử gia P. Cultru nói rằng tuy bề ngoài Pháp làm chủ được nhiều thị trấn ở miền Nam, nhưng vẫn bị quấy đảo khắp nơi...Nhưng một may mắn đặc biệt đã tới với họ, giữa lúc họ không ngờ nhất thì Tự Đức đề nghị mở cuộc giảng hòa. Sau khi thiếu tá Simon trao cho triều đình Huế bản nghị hòa (sơ thảo) thì việc này được đem ra bàn tại triều đình. Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Trương Đăng Quế đều tán thành việc gửi sứ thần vào nghị hòa với Súy phủ Nam Kỳ...Theo ông Quế, các điều kiện Pháp đưa ra cũng là phải chăng, nếu không lợi dụng dịp tốt này mà hòa giải cho xong, sau này cuộc phiêu lưu chưa biết tới đâu...Ký xong hòa ước, Bonard tự coi là đã thành công một cách oanh liệt. Về phía Việt Nam, nhất là sĩ dân miền Nam rất bất bình vì tại Nam Kỳ bị tổn thất quá nhiều...Nhưng dù căm phẫn thế nào với Pháp, triều đình Tự Đức vẫn không thể chiều ý sĩ dân miền Nam mà tái chiến với Pháp. Họ khuyên Trương Định hạ khí giới. Trương Định không chịu. Tự Đức phải cách chức Trương Định cho khỏi phiền phức với Pháp[26].

Ngoài ra, theo nhà giáo Ca Văn Thỉnh thì đây là một "hàng ước", còn theo giáo sư Trần Văn Giàu thì "đây là một sự phản bội đối với những người kháng chiến", vì sau hiệp ước này phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt khó khăn hơn trước: nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với đối phương. Quan trọng hơn nữa là triều đình không chỉ ra lệnh bãi binh, mà lại còn tiếp tay truy lùng các thủ lĩnh cho họ![27]